TRANG CHỦ » » Những vết thương không bao giờ thành sẹo

Những vết thương không bao giờ thành sẹo

Written By Trầm Hương Thơ on Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013 | 15:12

Tôi quen chị vào một ngày đầu năm Qúy Tỵ, dịp Meister Nam mời đến Võ đường của anh, nhậu nhoẹt và thưởng thức các tiết mục văn nghệ ngẫu hứng, do anh chị em khu vực Leipzig thực hiện. Tôi và ca sỹ Việt Hà đến hơi bị muộn. Bước chân vào Halle, không chỉ tôi mà cả Việt Hà cũng phải sững người lại, bởi một người đàn bà hát, có giọng khàn lạ, đang say sưa thả hồn trên sân khấu. Và nếu không có bàn tay cứng như sắt của Nam Võ, từ phía sau bóp mạnh vào bả vai, có lẽ tôi còn đứng lặng, chắn giữa cửa ra vào cho đến khi chị hát xong.

-Nghệt mặt ra rồi phải không? Hạ, nguyên cô giáo dạy nhạc, cùng quê Bắc Ninh, tôi đã nhiều lần kể với ông…

Vâng! Sự xáo động ấy trong tôi, không hẳn vì đứng trước người đàn bà đằm thắm đang ở độ chín lại. Nhưng nhạc và lời ca chị viết với giọng hát truyền cảm, như kể lại câu chuyện của đời mình, làm tôi xúc động mạnh…

Sinh ra và lớn lên trên quê hương Quan Họ, nhưng chị bảo, ngay từ nhỏ chỉ thích nghe chứ không có duyên với nó. Có lẽ do chất giọng khàn đục của chị không hợp với giai điệu, lời ca mượt mà của Quan Họ chăng? Tốt nghiệp trung học, được tuyển thẳng vào đoàn ca múa của tỉnh, nhưng chị đã từ chối và thi vào trường sư phạm âm nhạc. Sau mấy năm đèn sách, chị về dạy nhạc ở một trường trung học của một thị xã ven biển. Năm sau chị lập gia đình. Chồng chị là bạn học thời sư phạm, nhưng dạy mãi trên mạn ngược. Đứa con ra đời, chuyển chồng về gần là nhu cầu bức thiết của chị. Nhưng gái một con… và hát hay đàn giỏi, ngon như một bữa tiệc trước con mắt những con thú đang đói mồi, mỗi lần chị lên sở hay về trường nộp đơn từ. Sự mặc cả, ngã giá ấy trong môi trường giáo dục, của những kẻ tưởng như là cao đạo, chị thấy chẳng khác (kiểu) hàng tôm, hàng cá là bao nhiêu.

Màn đêm ở vùng biển dường như cũng buông chậm hơn. Những tia nắng dìu dịu cuối ngày chợt bùng cháy lên, đỏ như vệt máu đang nhỏ xuống biển. Chân trời thẫm một mầu xanh, cong cong như một chiếc bát khổng lồ úp xuống mặt nước. Một vài chiếc thuyền đang kéo buồm, chòng chành trong cái mầu xanh ấy, hướng về phía đất liền. Có những con sóng tung lên, như vồ lấy đàn hải âu đang sải cánh về phía bên kia dải nắng. Con phố nhỏ rộn lên tiếng ngư dân và những con thuyền vừa cập bến. Gió từ ngoài khơi thổi mạnh và rát hơn làm chị khẽ rùng mình. Quàng vội cho con chiếc áo khoác và chị đứng dậy, định về, nghe chị giáo vụ gọi giật lại:

-Ông Giám đốc sở nhắn tìm em, gặp bàn về việc thuyên chuyển của chú ấy. Ổng đang đợi ở nhà hàng Cánh Buồm, về thay quần áo, để con chị trông cho.

Lưỡng lự, định không đi, song nghĩ đến công việc của chồng, chị đành phải tới.

Trời chưa tối hẳn, nhà hàng còn vắng khách. Mấy em chân dài ngồi dàn hàng ngang, phì phèo đốt thuốc trước cửa ra vào. Chưa kịp hỏi, bà chủ đã đon đả kéo tay chị, miệng xởi lởi, đồng chí Giám đốc sở đang chờ ở phòng riêng, tầng trên. Thật ra chị mới gặp đồng chí Đốc vài ba lần, khi thì chỉnh huấn, lúc văn nghệ của ngành. Lần gần đây nhất, chị mang đơn xin thuyên chuyển của chồng đề nghị đồng chí Đốc giúp đỡ. Lần nào đồng chí Đốc cũng bắt tay thật chặt với cái cười tươi rói. Lần này đồng chí Đốc còn ra tận hành lang đón chị. Chị vừa ngồi xuống, đồng chí Đốc đã kêu người mang đồ ăn, đồ uống lên. Như một chiếc lò so, chị bật đứng dậy, miệng lắp bắp, đồng chí Đốc cắt ngang:

-Em cứ ngồi xuống, ăn uống một chút đã, công việc bàn sau.

Chị còn đang bối rối, thức ăn, bia rượu đã mang lên đầy bàn. Rất điệu nghệ, đồng chí Đốc với tay mở chai Sâm banh. Tiếng nút nổ, tiếng cười của đồng chí Đốc hòa vào nhau, nghe giòn tan. Khấp khới cả hai con mắt, đồng chí Đốc đẩy ly rượu về phía chị. Sợ đồng chí Đốc phật ý, chị cầm ly rượu đưa vội lên môi, rồi từ từ đặt xuống bàn. Đồng chí Đốc ân cần gắp đầy thức ăn vào bát, đưa và giục chị ăn. Hơi thu người lại, chị sợ, một con tính thoáng chạy trong đầu, bữa ăn sang trọng này có lẽ bằng cả một năm lương của chị chứ chẳng chơi. Đồng chí Đốc ép mãi, chị chấm mút cho lấy lệ… Ừng ực một hồi, đồng chí Đốc đã giải quyết gần xong đám rượu bia ở trên bàn. Mặt đồng chí đã phừng lên, hai con mắt ngầu ngầu, giựt giựt. Lúc này, đồng chí Đốc trở về con người thật của mình:

-Công việc của chồng em, anh đã thu xếp xong. Tiền anh không cần, nhưng hôm nay anh có chuyện buồn. Nếu như đêm nay, em ở lại đây với anh. Sáng thứ hai, em qua phòng anh nhận quyết định tiếp nhận, sau đó anh sẽ bố trí cho chồng em về một trường nào đó, quanh thị xã này thôi.

Nghe những lời này, từ miệng của kẻ chuyên giảng đạo đức cho các lớp tập huấn giáo viên toàn tỉnh, chị cứ ngỡ mình đang xem màn kịch hề chèo trên sân khấu vậy. Lợm giọng quá, nhưng chị cố bóp chặt cổ họng mình:

-Muộn rồi, xin phép Giám đốc, em phải về, vì còn cháu nhỏ ở nhà.

-Em nghĩ kỹ chưa, đơn xin việc ở phòng anh xếp còn cao hơn núi đấy!

Chị im lặng, định đứng dậy. Đồng chí Đốc bảo, khoan đã, tý nữa tiện xe, anh đưa về. Rồi đồng chí Đốc gọi bà chủ, cho hai ly nước tráng miệng và tính tiền. Chỉ một loáng thôi, đã thấy tự tay bà chủ bê hai ly nước cam vắt vàng óng lên. Một hơi, đồng chí Đốc uống cạn và giục chị uống cho mát rồi về. Cầm ly nước, chị uống một ngụm cho phải phép và đứng dậy. Chưa ra đến cửa thấy chóng mặt, quay cuồng, vịn chặt vào cánh cửa, nhưng chị không thể đứng lên được nữa….

Khi chị tỉnh dậy, trời đã gần sáng, lờ mờ nhận ra như đang nằm trên chiếc sofa đặt giữa phòng. Một lúc sau, chị mới cựa quậy được và có cảm giác thật, thấy người nhớp nháp, nhầy nhụa, áo mặc ngược, quần cài lộn cúc. Lắng lại một giây, chị chợt hiểu cái gì đã xảy ra. Chị vùng dậy, lao ra, giật mạnh cửa, cắm đầu chạy… Trước mặt đã là biển, chị vẫn từ từ đi ra hướng, nơi có con thuyền nhỏ bé dập dờn, trong cái mênh mông sóng nước, của những người thợ câu đêm. Trăng cuối tháng thoắt ẩn, thoắt hiện, bàng bạc như như kẻ vô tình. Sóng đã đập vào mặt, có những lúc nhấc bổng lên rồi lại dìm chị xuống. Ngửa mặt lên nhìn vòm trời lần cuối, chị thấy ngôi Sao Biển đang nghiêng về bờ cát, cháy rực lên. Và trong gió hình như có tiếng trẻ thơ vọng lại, làm chị giật mình. Chị vội quay người lại, có con sóng bốc chị, ném thẳng vào bờ.

Phiên tòa xử chị kiện đồng chí tỉnh ủy viên, Giám đốc sở giáo dục và đào tạo hiếp dâm, diễn ra chóng vánh. Nhân chứng từ chị giáo vụ cho đến bà chủ nhà hàng khẳng định, chị là người chủ động mời đồng chí Đốc đến. Khi chị có thái độ không đúng mực, đồng chí Đốc giải thích phân tích tường tận và ngay sau đó đồng chí đã ra về. Biên bản khám nghiệm của bác sỹ, như đinh đóng cột, thể trạng chị lúc đó hoàn toàn bình thường, không bị tổn thương. Vậy là từ nguyên cáo, chị trở thành bị cáo, can tội dùng tiền, tình mua chuộc cán bộ lãnh đạo, trục lợi cá nhân. Mức án giành cho kẻ vu cáo, nói xấu cán bộ lãnh đạo bét nhất cũng phải sáu tháng tù. Nhưng xét thấy hoàn cảnh chị, con còn nhỏ và người bị hại (đồng chí Đốc) có làm đơn xin tòa giảm án, nên cho hưởng án treo. Cũng trong ngày, chị nhận được quyết định đuổi việc vì không còn đủ đạo đức, nhân cách đứng trên bục giảng.

Ngày hôm sau, báo chí đồng loạt đăng tin ca ngợi đồng chí Đốc, một con người liêm chính, có một tấm lòng nhân đạo, vị tha. Dư luận từ trong đến ngoài, từ cán bộ đảng viên cấp cao đến các em chân dài, đạo chích, đâm thuê chém mướn đều (bái phục) tôn đồng chí Đốc là sư phụ của sư phụ. Chiếc ghế phó chủ tịch tỉnh, phụ trách mảng văn hóa, giáo dục, ai dám tranh với đồng chí Đốc nào?

Mẹ chị lành như đất, cả đời chỉ quanh quẩn với ruộng vườn, ít khi ra khỏi làng. Ấy vậy không hiểu mấy ngày nay bà lại bất thường giở chứng, sáng sáng cứ nhìn lên bàn thờ, nơi có cái bằng Tổ Quốc ghi công, lẩm bẩm:

-Không hiểu, cái thằng Mỹ nó ở tận đâu tận đâu, đến đây làm gì. Nghe các bố hô hào, bao xương máu đổ ra đánh cho nó phải cút. Đến bây giờ, lại mang kiệu rước nó vào. Giời đất ơi! Vậy thì chồng con tôi chết oan chết uổng cả rồi…

Đất làng chị đang trồng lúa, trồng màu bị chính quyền thu hồi, giao cho các ông chủ mới làm khu công nghiệp đợt đầu tiên, sau khi ông Mỹ hô bỏ cấm vận, nên đền bù rẻ như bèo. Nông dân vật vờ không việc làm, trai gái trong làng trôi dạt khắp nơi. Mẹ chị cả ngày đi ra đi vào đâm cáu gắt, ra ngõ chửi đổng. Hôm sau bà đi ăn giỗ làng bên về, dù đã khuya nhưng vẫn kéo chị vào buồng thì thầm:

- Hạnh con cậu Ba vừa tốt nghiệp cấp ba, sắp sang Đức làm ăn, qua ngả Nga và Ba Lan. Cậu Ba bảo, nếu con muốn, đi cùng cho có chị có em. Mình nộp tiền, giấy tờ họ lo toàn bộ. Mẹ nghĩ kỹ rồi, dù con không tù tội, bây giờ cũng khó xin việc, huống hồ lý lịch của con thế này không có nơi nào nhận đâu. Tiền con không phải lo. Tiền bán đất với sổ tiết kiệm tiền tử tuất (liệt sỹ) của bố và anh con là đủ. Còn con bé để ở nhà mẹ lo. Sau này ổn định sẽ đón chồng, con sang. Nếu đi, con phải thuyết phục chồng con mà thôi. Con hãy nghĩ kỹ, với con bây giờ, nơi này chỉ để thương để nhớ, chứ không còn là nơi để sống…

Chị cũng không ngờ, mẹ có được đi học ngày nào đâu, nhưng suy nghĩ, hiểu biết, tính toán đâu ra đấy như vậy.

Chị đến Nga vào một chiều mùa hè. Chiếc xe bus cà tàng đã chờ, nhóm hơn chục người của chị ở cửa sân bay. Qua ô cửa sổ nhỏ, chị thấy xe đang lướt nhanh qua những cánh đồng lúa mì mênh mông đang vào mùa gặt. Những cánh rừng bạch dương xanh ngát hai bên như miên man ôm chặt lấy con đường, có những lúc mở ra trảng đồng hoang tím đầy hoa dại. Con đường bồng bềnh, vồng lên chùng xuống, chui qua khoảng rừng thông tối sẫm tưởng như nuốt chửng cả đoàn xe, đang nối đuôi nhau chạy vào thành phố. Ngày còn ngồi trên nghế nhà trường, chị đã được đọc, học những tác phẩm đồ sộ, những bài thơ lãng mạn, với những cuộc tình say đắm lòng người của các đại thi hào nước Nga. Nên ai mà chẳng ước mơ, được một lần đặt chân lên xứ sở Bạch Dương diệu kỳ này. Hôm nay chị đã đến được với cụ Tolstoi, cụ Pushkin, Gorky… nhưng điều kỳ diệu ấy đã phải đóng lại trong tâm khảm của kẻ trên đường trốn chạy, với một tương lai vô định, mịt mù.

Xe quẹo vào cổng khu nhà tập thể cũ của một nhà máy, dường như đã bỏ hoang nhiều năm. Thấy cổng còn khóa, lái xe người Nga to như con gấu làu bàu chửi. Lúc sau có người Việt chân tập tễnh, đủng đỉnh đi ra mở và khóa cổng. Xe lùi vào căn hộ trong cùng, cửa có thanh sắt chắn ngang, to như cổ tay. Sau khi thu xong hộ chiếu, người ta mở đít xe, lùa cả vào, mọi người nháo nhác định hỏi. Người đàn ông Việt rất nhã nhặn khi còn ở sân bay, trừng mắt:

-Im lặng! Ở lại đây chờ, loạng quạng bọn Cớm đến xúc cả đi đấy. Sẽ có người mang đồ ăn đến.

Bọn chị đang định thần, thấy lố nhố một đám người đi ra. Họ là nhóm người đến trước mấy ngày, chờ đi tiếp. Trong ánh sáng mờ mờ của cây đèn cầy, chị thấy căn hộ khá rộng, có nhiều phòng, nhưng cửa sổ đã bịt và sơn đen, nên tối tăm và bốc mùi hôi thối rất khó chịu. Một chị nói tiếng Nghệ An, kéo tay chị và Hạnh vào phòng bảo, trong còn một cái đệm vào nằm chung cho đỡ sợ. Trong phòng còn mấy cô gái trẻ mặt mũi phờ phạc, vô hồn, hai mắt sưng đỏ. Chị Nghệ An nghiến răng, chỉ tay vào Hạnh nói:

-Tổ cha tụi nó, chưa đóng tiền nói ngon, nói ngọt. Sang đến đây, bị tụi nó nhốt vô cái nhà không điện, không nước. Đàn bà con gái, thích lúc nào chúng nó lôi ra hãm hiếp. Đồ bất nhân thất đức, có lúc chúng nó bị quả báo thôi. Những người mới, chuẩn bị tinh thần, tối nay thế nào tụi nó cũng đến lôi đi đấy, nhất là con bé này.

Hạnh sợ quá gục vào vai chị sụt sịt, biết thế này, các vàng em cũng chẳng đi. Chị cũng đang run lên, nhưng cố nói cứng an ủi Hạnh, phóng lao theo lao em ạ, đến đâu hay đến đó. Chị Nghệ An đưa cho hai người mấy ca nước và bảo, lấy khăn lau mặt, lau người cho tỉnh táo. Nước bẩn đổ cả vào sô, dùng khi đi nhà cầu. Cả chục con người, mấy ngày nay, nó mới chở cho vài, ba phuy nước.

Chiều tối, có hai người đàn bà, mặt mũi phấn son nhòe nhoẹt mở cửa, vứt toẹt thùng caton đựng bánh mì, thịt hộp và mấy bịch nước dưới sàn nhà, ngó nghiêng một lúc rồi bỏ đi. Dù rất đói, nhưng chẳng ai muốn lấy đồ ăn. Mãi sau có mấy anh lớn tuổi ở phòng bên, bê thùng đi phân phát cho từng người:

-Cố gắng ăn có sức khỏe để đi tiếp, những người ở nhà đang hy vọng vào cả chúng ta đấy!

Đêm đã muộn, mọi người vẫn không ngủ được. Những câu chuyện bán đất bán nhà, vay nợ cầm cố, lấy tiền để đặt cược cho chuyến đi này cứ dài mãi không dứt… Có tiếng cửa mở, mấy cô gái trẻ nằm bên co rúm người lại. Hạnh ôm chặt, rúc đầu vào ngực chị. Ánh đèn phin loang loáng rồi dừng lại phòng chị. Mờ mờ thấy ba, bốn thằng mặt mày bặm trợn, không biết say rượu hay say thuốc, đi cũng giật, đứng cũng giựt giựt như lên đồng, giọng nhừa nhựa:

-Mấy đứa vừa đến chiều nay đâu? Theo chúng tao lên phòng Chef làm việc.

Sự im lặng đến nghẹt thở. Chúng sục từng phòng, rọi đèn vào mặt từng người. Lôi thốc chị và Hạnh ra, miệng chúng lải nhải, hai con này còn trẻ, chuyến này toàn những con già. Chị và Hạnh ghì người lại, ôm chặt nhau:

-Giấy tờ chúng tôi đầy đủ, tiền bạc đã đưa, giờ này không đi đâu hết.

Hai thằng đi đầu, thằng cầm tay chị, thằng cầm tay Hạnh giật mạnh, lôi sềnh sệch đi. Hai thằng đi sau, dựng hai cô gái nhóm đến trước dậy, bắt đi cùng. Tiếng các cô khóc ré lên khản như tiếng mèo đêm. Hạnh khóc không thành tiếng, bố mẹ ơi! Cứu con. Biết không chống được bọn này, chị van xin chúng đừng mang Hạnh đi, vì nó còn trẻ con. Chị Nghệ An chạy ra bảo, đúng rồi, chúng mày tha cho con bé này, còn hai cô gái kia bị hành cả đêm hôm qua, bây giờ còn ra hồn người nữa đâu.

Chị Nghệ An chưa nói hết, bị một thằng giơ chân đạp thẳng vào người:

-Con già này còn nói nữa, bố lôi ra cho chó chơi bây giờ.

Mấy anh người Hải Phòng, đi cùng đoàn chị, ra cản lại:

-Các ông là người dẫn đường hay là kẻ cướp, hiếp dâm đây?

Bốn thằng cùng rút súng, dí vào đầu các anh:

-Đ.m! Chúng mày muốn đi tiếp sang Ba Lan sang Đức hay muốn đi xuống âm phủ.

Chúng lôi bốn người vào căn phòng bảo vệ của nhà máy cũ. Nơi đây có lẽ là nơi ăn ngủ, sinh hoạt hàng ngày của bọn đầu trâu mặt ngựa, được thuê trông coi ở trạm trung chuyển này. Quần áo, bát đĩa, chai lọ bẩn thỉu vương vãi, lăn lóc trên tấm thảm cháy lem nhem. Cánh cửa ra vào được làm từ mấy miếng ván ghép đậy lại. Đè nghiến cả bốn người xuống thảm, như những con thú hoang, chúng lao vào …Chị không còn cảm giác, Hạnh giãy dụa hét lên gọi mẹ, hai cô gái bên cạnh cắn chặt môi, mắt mở trừng trừng…

Chị phải dỗ mãi Hạnh mới chịu ăn, nhưng tinh thần rất hoảng loạn. Một tuần, rồi hai tuần phải sống trong hoàn cảnh như vậy, trước mặt Hạnh, chị phải cố giấu đi những giọt nước mắt của mình.

Gần sáng, có tiếng mở cửa, rồi hình như có tiếng quen quen của người đàn ông hôm đón ở sân bay. Mọi người bật dậy, ùa cả ra:

-Tất cả chuẩn bị và vệ sinh cá nhân, hôm nay sẽ vượt sang Belarus đến biên giới Ba Lan. Một tiếng nữa xe đến đón.

Không biết sẽ đi đến đâu, và như thế nào, nhưng thoát khỏi cái địa ngục trần gian này chị thấy như có thêm sức mạnh. Hơn hai mươi con người được nhét lên chiếc xe đông lạnh kín, chỉ có mấy lỗ thông hơi nhỏ được khoét ở dưới sàn. Lúc lên xe, người dẫn đường đưa cho mấy cái sô vệ sinh và dặn, không được để người ốm yếu, ngồi gần lỗ thông hơi, ngủ quên đè kín lỗ chết cả lũ.

Có lẽ ngồi trong bóng tối và chìm trong sự sợ hãi, nên không một ai còn cảm giác ngột ngạt, hôi thối, hay những nhu cầu sinh hóa hàng ngày của con người nữa. Gật gù nửa tỉnh nửa mê, chẳng biết ngày hay đêm, đường đi xa hay gần, khi chị tỉnh dậy đã thấy mình nằm cạnh Hạnh và mấy người nữa. Chị đang ngơ ngác, có mấy anh vào bảo, đã tới biên giới Ba Lan, bọn em bị ngất, nên khiêng vào đây. Mọi người ngồi cả ngoài kia, gần đây có con suối nhỏ nên thay nhau đi tắm rửa.

Trạm trung chuyển này là ngôi nhà sát biên, cách xa khu dân cư và hình như cảnh sát biên phòng cũng đã được mua bán, nên sinh hoạt cũng được thoải mái hơn. Ở đây, chỉ có người Belarus bảo vệ và mấy người Việt hàng ngày mang đồ ăn đến, đôi khi có cả cơm nên sức khỏe, tinh thần mọi người bình phục khá nhanh.

Tối thứ năm, mọi người bất ngờ được báo, phải vượt biên giới sang Ba Lan ngay trong đêm. Dẫn đường là hai người Belarus đối xử với mọi người khá tốt. Đoàn người phải vượt bộ qua một cánh rừng già, lá mục có chỗ bị thụt chân đến đầu gối. Mấy giờ sau, tất cả cũng mò mẫm được ra bờ suối. Nếu như được, người nào cũng muốn nhảy xuống tắm cho đỡ rát và ngứa vì muỗi. Bên kia đã là Ba Lan. Con suối nước chảy không xiết, nhưng khá sâu và rộng, người dẫn đường phải bơm thuyền cao su, lộn đi lộn lại chở mấy chuyến. Người dẫn đường ra hiệu, nghỉ ngơi lấy sức, rồi tất cả phải chạy thật nhanh qua cánh đồng lúa mì, có một chiếc xe bus của công ty du lịch chờ ở đó.

Chị cắm đầu chạy, những cây lúa mì bị dạt ra bởi những người chạy trước bật lại, đập vào mặt như roi quất. Có những cây bị nằm rạp xuống cuốn vào chân giật chị ngã sấp mặt xuống ruộng. Chưa có cảm giác đau, chị vùng dậy chạy tiếp …

Chị có lẽ là người cuối cùng đến đích. Đầu gối chùng xuống, tim đập thình thình, mắt hoa lên, chị không thể bước lên được cửa xe. Một anh cầm tay chị kéo giật lên. Khi nhìn thấy Hạnh đang ngồi thở hổn hển, chị mới gục xuống.

Xe tới chợ (người Việt) sân vận động, trời đã gần sáng. Người, hàng hóa ra vào tấp nập. Phần đông đã có người nhà đón, số còn lại sang Đức, phải chờ. Chị và Hạnh được người ta cho ở chung với mấy người đang phụ bán hàng ngoài chợ. Cùng cảnh, nên họ cảm thông, thường nấu nướng cùng nhau ăn uống hay dẫn chị và Hạnh ra chợ cho đỡ buồn, đỡ nhớ nhà. Đến bây giờ nghĩ lại, chị bảo, nếu như không có hai tuần ở lại Warszawa và được sự chăm sóc, an ủi của các chị bán hàng ngoài chợ, chắc chắn chị không đủ sức lực và tinh thần vượt biên vào Đức, khổ và gian nan gấp nhiều lần so với từ Belarus vào Ba Lan.

Xuống nhà ga Halbestadt, chị và Hạnh đang lò dò, ngó nghiêng, có người Việt nào để hỏi đường vào trại tị nạn, không hiểu mấy người cảnh sát từ đâu ra, đã đứng ngay trước mặt. Khi cảnh sát kiểm tra, chị và Hạnh chỉ có tờ giấy duy nhất ghi địa chỉ của trại tỵ nạn trong người. Người cảnh sát gọi điện cho ai đó một lúc, rồi ra hiệu cho chị và Hạnh lên xe. Tưởng họ chở vào tù, rồi trả về Việt Nam, Hạnh sợ quá khóc ré lên. Người cảnh sát nói một tràng, rồi cười vỗ nhẹ vào vai Hạnh…

Sau khi cảnh sát bàn giao cho trại tỵ nạn, chị và Hạnh được làm giấy tờ và nhận phòng. Sáng hôm sau, người phiên dịch đưa chị và Hạnh đi phỏng vấn và kiểm tra sức khỏe, sau đó nhận quần áo, và tiền tiêu vặt. Chị được cấp giấy phép tự do đi lại tất cả các thành phố trong bang. Bước đầu khá thuận lợi, làm cho chị giảm đi nỗi đau vừa trải qua, nhưng nỗi nhớ chồng con và gia đình lại quằn quại thêm, làm cho chị nhiều đêm mất ngủ. Tháng sau chị và Hạnh cùng được chuyển về thành phố Halle, nơi định cư mới. Nơi này là khu nhà lắp ghép, trước khi chị đến đã có nhiều tị nạn người Việt và các nước khác đang ở đó. Được mấy hôm, không hiểu sao chị và Hạnh lại gọi đi khám sức khỏe một lần nữa.

Trời hình như chưa vào thu. Nhưng có một vài cơn gió nhẹ, cuốn theo những chiếc lá còn xanh, bay đi. Làm cho lòng người day dứt, bồi hồi tựa như vừa đánh rơi một cái gì đó, mà không thể gọi thành tên. Khi ánh nắng vẫn còn đậu trên những giọt sương mai trong từng kẽ lá, mọi người vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Người phiên dịch, đi cùng hai nhân viên y tế gõ cửa vào phòng chị. Người phiên dịch bảo, Hạnh bị mắc bệnh, cần phải chuyển ngay về bệnh viện Magdeburg điều trị, xe đang chờ ở ngoài. Chị có linh cảm chẳng lành, nhưng Hạnh lại hồn nhiên dọn quần áo, như chuyển trại vậy. Chiều chị phiên dịch quay lại, chị gặng hỏi, chị phiên dịch bảo:

-Nếu em không phải là người nhà duy nhất của Hạnh, thì chị không dám nói. Nhưng em phải thật bình tĩnh. Hạnh bị nhiễm HIV, từ vài ba tháng trước đây, trùng với thời gian các em bị hãm hiếp ở Nga, như các em đã khai trong hồ sơ. Rất may cho em…

Chị phiên dịch cứ nói, nhưng chị chẳng nghe được gì nữa, hai chân từ từ khụy xuống…

Theo đề nghị của Hạnh, hôm sau xe của Caritas đón chị đến bệnh viện. Mới có mấy ngày, trông Hạnh sọm hẳn đi, hai mắt đỏ hoe, sâu hoắm. Chị ôm chầm lấy Hạnh qua lớp áo choàng của bệnh viện. Hạnh không còn một chút sinh lực nào, người rũ xuống. Rất lâu, nhưng không ai nói được câu nào, chỉ có nước mắt và nước mắt. Lúc chị về, Hạnh chỉ nói, em rất nhớ nhà, khi nào em chết, chị cố gắng mang em về quê cho gần bố mẹ em, chị nhé. Chị ngoái lại, đừng có nói gở, yên tâm chữa bệnh, chị sẽ đến thăm em thường xuyên.

Không ngờ, đó là lần cuối cùng chị gặp Hạnh. Có lẽ không có gì sợ bằng sự chờ đợi cái chết. Hạnh lại còn quá trẻ, không thể chịu nổi cú sốc đến quá nhanh, quá bất ngờ như vậy. Hạnh tự giải thoát bằng cách lao mình từ tầng tư xuống đất vào lúc trời gần sáng, ngay trong khuôn viên của bệnh viện. Vậy là tấm hình Hạnh chụp, chưa kịp làm thẻ tạm trú, nay đã thành ảnh thờ. Sau cái chết của Hạnh, chị phải vào bệnh viện nằm mấy tuần. Tưởng không đứng dậy nổi, nhưng nghĩ đến sự hy vọng của gia đình với chị, với Hạnh, chị lại gượng dậy.

Chưa được phép làm việc, chị đi làm chui làm lậu. Bất kể công việc gì, ở đâu, cứ có người thuê, chị cũng múc. Công việc phụ dọn, bán hàng vải ngoài chợ giời Leipzig, chị trụ được lâu nhất. Làm được hơn năm, ki cóp được khoản tiền, chị lại phải lo mua đểu, lấy một ông chồng người Đức, để hợp thức hóa giấy tờ ở lại, khi bị bác đơn tị nạn, nhận giấy trục xuất về nước. Việc thuyết phục ông chồng thật ở nhà, ly hôn đểu, quả thật khó ngoài sức tưởng tượng của chị. Nhùng nhằng mấy tháng, ông chồng thật mới chịu hiểu, thông cảm và gửi giấy tờ sang.

Số chị quả thật đắng cay, vất vả. Ông chồng đểu, bình thường lành như đất, khi có chút bia rượu, dù đã nhận tiền của chị, nhưng cứ đòi làm chồng thật. Nhè nửa đêm, hắn khật khừ bấm chuông, đập cửa. Cả ngày đứng rét ngoài trời âm cả chục độ, về nhà chui vào chăn, vẫn thấy rét từ trong rét ra, chị mệt quá, đuổi. Hắn lỳ ra, xông thẳng vào bế thốc chị lên. Chị giãy giụa, chống cự, hắn như con trâu húc mả… Lần đó, hàng xóm phải gọi xe cấp cứu chở chị đến bệnh viện. Trải qua những lần như vậy, bác sỹ bảo, khả năng sinh đẻ của chị không còn nữa. Uất ức là thế, đau là thế, nhiều lần bệnh viện gọi điện cho cảnh sát, nhưng cái thẻ cư trú còn lơ lửng trên đầu, nên chị phải im lặng…

Đêm muộn, câu chuyện của chị, người đàn bà hát, dường như chưa đến đoạn kết, nhưng bị cắt ngang, bởi con gái chị đến. Nó bảo, vừa từ Berlin về thẳng đây (Halle của bác Nam võ) hát với mẹ cho vui. Chị cười, may cũng còn có nó, cháu đang học năm thứ ba, trường TU Berlin. Chị hẹn, hôm nào rảnh, vào chợ, chơi.

Gian hàng của chị rộng rãi, nằm trên vị trí khá thuận tiện của khu chợ người Việt ở Leipzig. Sau tết, chợ vắng khách, chị và mấy người giúp việc đang kiểm tra, dọn dẹp lại hàng hóa, chuẩn bị cho vụ hè. Tôi hỏi, ông xã đâu mà chị phải khiêng vác thế này. Không trả lời ngay, chị lấy nước, kéo ghế mời tôi.

Sau khi nhận được thẻ cư trú vô thời hạn, chị tìm mọi cách đưa con và ông chồng, đang vật vờ trên mạn ngược, sang đoàn tụ. Tạm yên tâm chuyện gia đình, chị dồn và vay tiền, quyết tâm thuê lại gian hàng trong chợ. Hơn chục năm vật lộn với nó, chị mới có cơ ngơi và thành quả như ngày hôm nay. Chị nói về chồng với nét mặt chẳng vui, cũng chẳng ra buồn. Ngày mới sang còn đói rách thì chẳng sao, bây giờ có tiền, hắn đâm đái chứng, đái tật, suốt ngày ca cẩm không có con trai để nối dõi. Mấy tháng nay, hắn về Việt Nam, kiếm thằng con trai đấy. Với chị bây giờ, mọi cái đều đơn giản, không còn quan trọng nữa…

Lúc tôi đứng dậy ra về, chị bảo, kể câu chuyện trên với tôi như một sự dãi bày, mong có sự đồng cảm. Nếu sắp tới, chị có ghi lại một chút quá khứ ấy bằng nhạc, đề nghị tôi viết cho phần lời.

Vâng! Nhất định sẽ giúp chị, với khả năng của mình, nắm chặt tay chị, tôi nói như vậy.

Leipzig ngày 17-3-2013

© Đỗ Trường
Share this article :

Đăng nhận xét

 
Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
Copyright © 2011. CHIM ÉN MÙA XUÂN - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Mas Template
Proudly powered by Blogger